Những bí ẩn xung quanh thành nhà Hồ
Di sản thế giới thành nhà Hồ (Thanh Hóa) ẩn chứa rất nhiều câu
hỏi chưa có lời giải, trong đó có chuyện thời gian, kỹ thuật xây thành, đôi rồng
đá bị mất đầu và ngôi mộ táng khổng lồ ở đàn tế Nam Giao…
Thành nhà Hồ là công trình kiến trúc bằng đá độc đáo có một
không hai tại Việt Nam. Thành được Hồ Quý Ly cho xây vào mùa xuân năm 1397, còn
gọi là Tây Đô (hay Tây Giai) để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long, Hà Nội). Nơi
đây từng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa vào cuối triều Trần và kinh đô
của nước Đại Ngu trong khoảng 7 năm, từ 1400 đến 1407.
Sử cũ chép, vào năm 1397, đất nước đứng trước nạn xâm lăng của
nhà Minh, Hồ Quý Ly đã lệnh cho quan Thượng thư Bộ Lại kiêm Thái sử lệnh Đỗ Tĩnh
đến thị sát vùng đất Thanh Hoá để xây dựng thành trì, chuẩn bị cho việc định đô.
Hồ Quý Ly đã chọn đất An Tôn (nay thuộc xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh
Lộc) để xây dựng kinh thành nhằm chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài, đồng
thời cũng là cách để hướng lòng người trong thiên hạ xa lánh, đoạn tuyệt với nhà
Trần.
|
Cổng Nam thành nhà Hồ, đây là cổng chính, lớn nhất dẫn vào Hoàng
thành. Ảnh: Lê Hoàng. |
Vùng đất được chọn có địa thế hiểm yếu, có đường đi từ Bắc vào
Nam và sang Lào. Xung quanh được án ngữ bởi nhiều ngọn núi cao, hai mặt nam, bắc
có sông Mã và sông Bưởi chảy qua.
Thành nhà Hồ gồm 3 bộ phận, La thành, Hào thành và Hoàng thành.
Trong đó, công trình đồ sộ nhất và còn khá nguyên vẹn cho đến ngày nay là Hoàng
thành. Toàn bộ mặt ngoài tường thành và bốn cổng chính được xây bằng những phiến
đá vôi màu xanh, được đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau. Các
bức tường thành được ghép từ những khối đá lớn, có phiến dài tới hơn 6 m, ước
nặng 20 tấn. Tổng khối lượng đá được sử dụng xây thành khoảng 20.000 m3 và gần
100.000 m3 đất được đào đắp công phu.
Theo sử sách ghi lại trong thành có nhiều công trình như điện
Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, Tây Thái Miếu,
Đông Thái Miếu... rất nguy nga, tráng lệ chẳng khác gì kinh đô Thăng Long. Tuy
nhiên, trải qua hơn 6 thế kỷ tồn tại với rất nhiều tác động của thiên nhiên và
con người, hầu hết công trình kiến trúc bên trong Hoàng thành đã bị phá hủy.
Các nhà nghiên cứu lịch sử đánh giá, kiến trúc của Thành nhà Hồ
rất khoa học, với các phiến đá được đục đẽo vuông vức, công phu xếp đan xen theo
hình múi bưởi để tránh rung chấn lớn như động đất. Giữa các phiến đá xây thành
không có bất kỳ chất kết dính nào nhưng tòa thành vẫn đứng vững hơn 600 năm qua
dù chịu rất nhiều tác động của địa chấn và bom đạn tàn phá. Điều đặc biệt là
công trình kiến trúc đồ sộ, vững chắc như vậy mà quá trình xây dựng chỉ vỏn vẹn
ba tháng (từ tháng 1/1397 đến tháng 3/1397).
Thời ấy chưa có công nghệ vận chuyển hay ghép đá gắn xi măng,
vậy làm sao để những bức tường thành được xếp vuông vắn, thẳng đứng và tồn tại
đến ngày nay? Điều gì đã giúp người thợ xưa với công cụ thô sơ lại có thể vận
chuyển và xây nên tường thành bằng những phiến đá khổng lồ?
Câu trả lời được hé lộ phần nào khi người ta tìm thấy hàng trăm
viên bi đá lớn (bằng quả bóng đá), nhỏ (bằng quả cầu mây) trong nhiều lần khai
quật khảo cổ. Việc tìm thấy những viên bi đá này giúp củng cố giả thiết người
thợ khi xưa đã dùng chúng như con lăn để tời đá từ vùng khai thác (cách vị trí
xây thành hàng chục km). Kết hợp với tời và đắp đất, người ta đã đưa những phiến
đá lên cao để xây thành.
Ngoài kỹ thuật xây thành, đôi rồng đá mất đầu cũng là câu hỏi
hiện chưa có lời giải thỏa đáng. Nằm ở trung tâm tòa thành, hai con rồng mất đầu
nằm song song hai bên đường đi xuyên qua thành nối từ cổng Nam lên cổng Bắc. Nhà
Hồ thất thủ, đôi rồng đá mất tích bí ẩn. Năm 1938, tượng rồng đầu tiên được một
nông dân phát hiện khi đang cày ruộng trong thành. Cho rằng đã là tượng rồng ở
cung vua thì nhất thiết phải có cặp nên các chức dịch trong làng đã cho đào bới
khắp vùng mới tìm được tượng rồng đá thứ hai.
|
Đôi rồng đá bị mất đầu hiện được đặt ở trung tâm tòa thành. Hai
con rồng nằm song song hai bên đường đi xuyên qua thành nối từ cổng Nam lên cổng
Bắc. Ảnh: Lê Hoàng. |
Cặp rồng được chạm khắc rất tỉ mỉ. Thân rồng thon nhỏ dần về
phía đuôi, uốn bảy khúc, phủ kín vảy. Rồng có bốn chân, mỗi chân ba móng với các
túm lông lượn mềm mại. Đầu rồng hiện đã bị mất nhưng vẫn còn phần bờm dài lượn
chín nếp. Các khoảng trống dưới bụng và ô tam giác ghép thành bậc đều được chạm
hoa cúc và móc hoa lượn mềm.
Theo nhiều nhà nghiên cứu điêu khắc, đôi rồng này là loại được
chạm khắc trên thềm bậc của các cung điện như hiện thấy ở điện Kính Thiên, Hoàng
thành Thăng Long (Hà Nội), chính điện Lam Kinh (Thanh Hóa).
Ai đã chặt đầu rồng, câu hỏi này có nhiều lý giải. Người cho
rằng sau khi xâm lược, quân Minh đã chặt đầu rồng, biểu tượng quyền lực của nhà
Hồ để thể hiện sự diệt vong của vương triều này. Lại có người cho rằng việc này
là do những người bất đồng chính kiến với nhà Hồ gây ra.
Lại có ý kiến rằng thời kỳ mới chiếm đóng Việt Nam, người Pháp
bắt dân trong vùng hàng tháng, hàng năm phải trải chiếu hoa trên con đường dẫn
tới đôi rồng đá. Người dân bức xúc nên chặt đầu rồng? Còn một cách lý giải lưu
truyền trong dân gian rằng có thời kỳ làng Xuân Giai (nằm ở cổng Nam, thuộc xã
Vĩnh Tiến) thường xuyên bị cháy nhà. Người dân cho rằng do rồng quay đầu về làng
phun lửa gây cháy nên đã chặt đầu rồng.
Người dân xứ Thanh còn truyền tai câu chuyện nhuốm màu giang hồ
như sau. Nghe đồn trong mắt rồng ở cung cấm thường được vua chúa cho yểm rất
nhiều vàng ngọc châu báu, một đêm lợi dụng lúc trời đổ mưa như trút nước, trong
thành hoang vắng không bóng người qua lại, hàng chục đạo tặc bí mật chặt đầu đôi
rồng mang đi xa đập nát để tìm ngọc quý. Cũng chẳng ai nhớ đó là năm nào.
Tiến sĩ Phạm Văn Đấu (Hội sử học Thanh Hoá) đánh giá đôi rồng đá
ở thành Tây Đô thuộc loại tượng rồng lớn và đẹp nhất hiện còn lại ở Việt Nam.
Đôi rồng thể hiện nghệ thuật chạm khắc thời Trần lúc hưng thịnh với đặc điểm
khỏe khoắn, đầy đặn. “Sử cũ không ghi chép cũng không ai biết đôi rồng đá bị mất
đầu từ bao giờ, nhưng giả thiết sau khi xâm lược nước ta, quân Minh cho chặt đầu
rồng mang về báo công được nhiều người chấp nhận”, tiến sĩ Đấu nói.
Xung quanh ngôi thành đá hơn 600 năm tuổi vẫn còn vô số bí ẩn
đang chờ giải mã. Mới đây nhất, trong quá trình tôn tạo, phục dựng di tích đàn
tế Nam Giao thuộc di sản thành Nhà Hồ, các nhà khảo cổ đã phát hiện ngôi mộ táng
khổng lồ, bên trong có bộ xương còn tương đối nguyên vẹn.
|
Mới đây, các nhà khảo cổ còn phát hiện một ngôi mộ táng khổng lồ
ở đàn tế Nam Giao, bên trong là bộ cốt trâu còn nguyên vẹn. Ảnh: Lê
Hoàng. |
Bộ xương ở tư thế nằm ngửa, được đặt trong bia mộ quây bằng đá.
Vị trí của ngôi mộ đá này nằm dưới lòng bức tường bao vòng ngoài của đàn tế Nam
Giao, sát chân núi Đốn Sơn. Qua nghiên cứu, các nhà khảo cổ nhận định, đây là bộ
xương trâu. Nhưng vì sao lại mai táng trâu ở vị trí trang trọng là đàn tế, nơi
được coi là chốn linh thiêng, thì vẫn là câu hỏi bỏ ngỏ.
Tiến sĩ Đỗ Quang Trọng, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản thành
nhà Hồ, cho rằng đối với người phương Đông, quan niệm “tam sinh” (ba vật dùng
trong lễ tế thần gồm trâu, dê, ngựa) đã trở thành luật bất thành văn và ăn sâu
trong lòng người Việt. Rất có thể trước khi khởi dựng đàn tế, Hồ Quý Ly đã cho
cúng trâu để tế thần linh. Mặt khác, xứ Thanh thuộc hạ lưu sông Mã, là vùng canh
tác lúa nước màu mỡ phì nhiêu hàng nghìn năm nay, nên con trâu luôn được đánh
giá cao. Hồ Quý Ly cho cúng tế thần linh bằng trâu với mong muốn dân được no đủ,
mùa vụ bội thu.
Hiện ngôi mộ đá táng trâu vẫn nằm nguyên vị trí cũ. Theo kế
hoạch tới đây số cốt xương của con trâu được tế lễ hơn 600 năm về trước sẽ được
khai quật toàn bộ. Mô hình mộ đá sẽ được dựng lại để đảm bảo thống nhất toàn vẹn
của di tích đàn tế trong quần thể di sản Thành nhà Hồ.
Thành nhà Hồ nằm trên hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh
Lộc, Thanh Hóa. Trải qua hơn 600 năm tồn tại, hầu hết công trình kiến trúc bên
trong Hoàng thành đã bị phá hủy. Những dấu tích nền móng của cung điện xưa giờ
vẫn đang nằm ẩn mình phía dưới những ruộng lúa của người dân quanh vùng. Ngày
27/6/2011, tại phiên họp lần thứ 35 của Ủy ban di sản thế giới thuộc Tổ chức Văn
hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) diễn ra tại thủ đô Paris
(Pháp), thành nhà Hồ đã được công nhận là di sản văn hóa thế
giới. |
Lê Hoàng
No comments:
Post a Comment